Hà Nội Thi sĩ và tâm cảnh trăng hoa

Thảo luận trong 'Dịch vụ khác' bắt đầu bởi phukiennhat, 25/5/17.

  1. phukiennhat

    phukiennhat Đã đăng ký

    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Vũ Hoàng Chương là một thi sỹ lớn, từ thập niên30. cố nhiên, lớn không phải chỉ do số lượng thi phẩm xuất bản mà còn lớn ở phẩm chất văn học, nét sáng tạo xuất thần, phong phú đã khai sinh được vong hồn cho từng dòng chữ, từng câu thơ.

    Bút mực dương thế đã tốn nhiều giấy mực với thi sỹ họ Vũ này. Ở đây, người viết chỉ xin khiêm tốn pha một bình trà, mời độc giả cùng mạn đàm đôi nét về thơ Vũ Hoàng Chương, ở những ngã rẽ tình cờ, trên một khía cạnh khác. khía cạnh của “Tâm cảnh thăng hoa.”

    Quý vị cũng biết đó, thời đi học, không cuốn Lưu Bút Ngày Xanh nào truyền tay nhau mà không có dăm câu thơ VHC. Những bài thơ tình lãng mạn, nếu chép nguyên bài, có thể không hiệp lắm với tuổi học sinh, nhưng “nhặt” ra những câu thơ mộng thì nhiều vô kể kể, đám học sinh trung học thả phanh lựa chọn mà lưu bút cho nhau, tùy theo tình cảm của chủ nhân cuốn lưu bút và người được mời viết.

    Ấy vậy mà, thú thật, suốt tuổi học sinh, tôi chưa từng trích câu thơ nào của VHC vào những cuốn tập mầu xanh, mầu tím ấy. Không biết vì sao! Có lẽ vì tôi cù lần quá, đọc những bài thơ tình nổi danh đó, tôi chưa hiểu, hay chưa cảm được, nên tâm cảnh cứ “ Rằng hay thì thật là hay. Vừa toan chép xuống, lại, loay hoay thế nào!”, dựa theo lời thi hào Nguyễn Du khi tả tiếng đàn của Thúy Kiều “Rằng hay thì thật là hay. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”

    Nhưng đến nay, đã qua ngưỡng cửa “thất thập cổ lai hy,” ngẫm đời mình, ngẫm đời người, chợt thoảng nghe tiếng nấc của thi sỹ trong niềm cô đơn cùng cực. cơ cực để thăng hoa.

    “Ta còn để lại gì không?
    Kìa non núi lở, kìa sông cát bồi
    Lang thang từ độ luân hồi
    U minh nẻo trước, xa xôi dặm về!”

    Đi suốt những khổ cực, nhận trăm cay nghìn đắng, rượu và nước mắt hòa nhau như mưa trời, rồi người làm thơ đó mới may mắn nhận ra “Ta còn để lại gì không?”

    Câu hỏi, nhưng thực đã là câu trả lời.

    Nếu chưa đi suốt dặm trường đau khổ, có chắc gì ưng, ta có mặt nơi thiên hạ này chỉ là “lang thang luân hồi” không? Hay vẫn còn mê mải níu bắt những mộng ảo “Như mộng, huyễn, bào, ảnh. Như lộ diệc như điện” mà kinh Kim Cang không ngừng từ bi nhấc!

    Vũ Hoàng Chương là con quan một tri huyện nên đã được đời ưu đãi từ tấm bé. Cái thuở mà nhiều gia đình không đủ sức cho con đi học trường làng thì VHC đã đậu bằng tú tài Pháp, thập niên 30.

    Chàng thanh niên hội đủ tiêu chuẩn “con nhà giầu, đẹp trai, học giỏi” như thế, lại bị một cô gái con nhà nghèo từ chối tình yêu thì có uất nhục không? Khối tình vô vọng này là động lực khai ngòi núi lửa, tuôn trào triền miên dòng phún thạch bất tận trong lịch sử thi ca thất tình thời đó. Những câu thơ xuất thần tới mức, chỉ đọc lên, mà nghe rõ ràng như tiếng khóc, tiếng nấc:

    “Tố của Hoàng ơi! Hỡi nhớ thương
    Em xa lạ quá! Đâu còn phải,
    Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi!”

    Rồi khi nàng Tố không còn, tiếng khóc của Hoàng còn bi ai bội phần:

    “Mây khói đêm nay sầu dựng mộ
    Bia đề tháng sáu, ghi mười hai
    Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc
    Tố của Hoàng, nay Tố của ai?!”

    Bâng quơ thôi, nhưng là bâng quơ của tánh bản thiện tiềm ẩn mà Đức Thế Tôn chỉ dạy trong kinh Pháp Hoa, khi trẻ nhỏ vọc cát chơi, lại chỉ phác họa tháp Phật:

    “Nhẫn đến đồng -tử giỡn
    Nhóm cát thành tháp Phật
    Những hạng người như thế
    Đều đã thành Phật-đạo”

    Ôi! Tiếng thơ xưa vẫn nức nở, nhưng dòng lệ nay đã là những hạt kim cương vì lệ không rơi cho tình riêng nữa. Cảnh tượng cực kỳ bi tráng toát ra từ vựng Bồ Tát an nhiên ngồi xuống, tự hóa thân thành lửa đỏ, cứu muôn người - đối với thi sĩ - đã có mãnh lực ngàn lần hơn tiếng thét của thiền sư giúp học trò hoắt nhiên đại ngộ.

    Lần nọ, tôi ghé thăm một bạn văn xưa, được bạn đãi ly trà quý thơm lừng. Rồi giữa không gian chật hẹp của một nhà xe được sửa lại thành không gian bát ngát của chữ nghĩa, bạn lục báo cũ, cho tôi dăm tờ.

    Về Am, tôi nhẩn nha đọc, và thấy trong dăm tờ đó, một bài thơ của Vũ Hoàng Chương được nhận định, có nhẽ là bài “Khai bút đầu năm ” rút cuộc của thi sỹ, đăng trên tạp chí Nhà Văn, Xuân Ất Mão, tháng hai năm 1975.

    Vũ Hoàng Chương mất ngày 6 tháng 9 năm 1976, sau khi CSVN thả ông ra khỏi tù ít lâu!

    Trích nguồn : http://truonghaitinsuckhoe.blogspot.com/2017/05/thi-si-va-tam-canh-trang-hoa.html
     

Chia sẻ trang này

Đang tải...