SẢN XUẤT NHÔM DÙNG LÀM KHUNG MIỆNG GIÓ

Thảo luận trong 'Mẹo vặt' bắt đầu bởi lephuc01, 23/5/17.

  1. lephuc01

    lephuc01 Đã đăng ký

    Bài viết:
    49
    Đã được thích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    SẢN XUẤT - CUNG CẤP SỈ LẺ NHÔM THANH DÙNG LÀM KHUNG MIỆNG GIÓ CÁC LOẠI



    LH 0937 655 551 - 0983 994 326



    QUÝ KHÁCH CÓ THỂ THAM KHẢO THÊM TỪ HÌNH ẢNH WEDSITE CHÚNG TÔI:

    NHÔM KHUNG MIỆNG GIÓ CÁC LOẠI



    [​IMG]



    ================================================================================================================================================================================================================

    Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và sống trâu tử bằng 13. Thịnh hành thời Tống tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ thông thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim khí phổ quát nhất trong vỏ địa cầu. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của trái đất. Kim khí nhôm hiếm biến hóa hóa học mạnh với các mẫu quặng và hiện diện giữ lại trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy vậy , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng chất khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .



    Nhôm có điểm đáng để ý của một kim loại có tỷ trọng thấp và có khả năng chống bào mòn hiện tượng bị động. Các thành phần kiến trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan trọng cho ngành Công lao phưởng chức vũ trụ và rất quan trọng trong các lĩnh vực khác của giao thông vận tải và nguyên liệu cấu trúc. Các hợp chất hữu ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.



    mặc dầu nó hiện diện phổ biến trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ quát của nó , nhôm được thu nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]



    Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguyên lai từ aluminium trong tiếng Pháp .







    tính chất [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa gây nên rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống bào mòn và vững bền do lớp ôxít trông coi. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở điều kiện bình thường .



    Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong lúc hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp xếp thành một kiến trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]



    Nhôm đặc tính với nước tạo ra hydro và năng lượng:



    2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2

    thuộc tính này có khả năng dùng để sản xuất hydro , tuy nhiên đặc tính này chóng vánh dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn rào đặc tính xảy ra. [8]



    Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị gây thiệt hại nhiều theo phản ứng



    Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O

    nối tiếp Al lại tác dụng với nước như đặc tính trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.



    Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu đi hàng đầu tới nhôm ( mặc dù chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):



    Có một ngày một người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã làm ra kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam kết với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách sản xuất kim khí này từ đất thó. Hoàng đế rất ưa thích , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan hoài tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi tài sản vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giá như người dân bắt đầu sản xuất kim loại màu sáng này từ đất thó. Bởi thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]



    Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim khí này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim khí của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium .



    tên tuổi của Friedrich Wöhler nhìn chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim loại này đã được sản xuất lần đi hàng đầu trong dạng không thuần chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .



    Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]



    Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để làm ra nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện phương pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai sửa đổi cho tiến bộ hơn trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc sản xuất nhôm từ khoáng chất trở thành không đắt tiền và hiện nay nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới.



    Nước Đức trở thành nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể lạc quan cạnh tranh: khả năng làm ra đủ nhôm để có thể sản xuất 60.000 máy bay tiêm kích trong bốn năm. [12] .



    áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.



    Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần quan yếu trong các phi cơ và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.

    Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao trùm cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm canh giữ , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tế , cơ hồ tuốt các loại gương đương đại được làm ra sử dụng lớp cộng chấn bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các cộng chấn bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.

    Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng hấp thụ bức xạ điện từ của aìc vàng tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.

    Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của công cụ tải ( ôtô , máy bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu bể , v.v. )

    Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )

    xử lí nước

    Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần lần cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )

    Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )

    Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]

    chế tác máy móc.

    mặc dù tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico .

    Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và sản xuất đĩa CD .

    Nhôm dạng bột thường nhật được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , chủ yếu là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.

    Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.

    phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.

    Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra sao thủy. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có thể giao thoa .

    Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo bông .

    biến hóa nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )

    Sự phổ thông , điều chế [ sửa sửa mã nguồn ] Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]



    mặc dầu nhôm là nguyên tố phổ quát trong vỏ địa cầu ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim khí quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm dự phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim loại tương đối mới trong Công lao và được làm ra với số lượng công nghiệp chỉ khoảng trên 100 năm.



    Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tuốt nhôm của địa cầu tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.



    Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần nông dân quan yếu của công nghiệp luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với làm ra từ quặng. Việc tinh chế nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dầu cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một chuye mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho Thấu suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự bùng nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.



    Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn hợp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ đan vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .



    Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .



    Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:



    Al 3+ + 3e - → Al

    Ở đây các ion nhôm bị chuyển biến ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau thời gian ấy chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.



    Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:



    2O 2- → O 2 + 4e -

    Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị hao hụt do phản ứng:



    O 2 + C → CO 2

    ngược lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được canh gác bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn cốt yếu là do các biến hóa điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải tu sửa hết thảy do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.



    Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Các quy định hao hụt năng lượng phổ biến là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò hiện đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò ngày nay làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thử nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.



    Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , nước phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực ấn độ dương mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .



    Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).



    Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được làm ra từ agon trong khí quyển do đụng chạm ra đời bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các thiên thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xói mòn trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).



    Al-26 nguồn gốc vũ trụ đầu tiên được sử dụng để Học hỏi trăng và các tinh thạch . Các thành phần nông dân của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguồn gốc của chúng , trong khi ngao du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có khả năng sử dụng để chính xác tuổi trên quả đất của các thiên thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ thông trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có xác xuất là năng lượng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 liên đới đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]



    Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã thông báo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có tính chất giống như nguyên tử kim loại kiềm thổ . Các nhà Học hỏi còn kết liên 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông cáo là Cởi ra khả năng của các biến hóa mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]



    báo trước [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ quát nhất mà không có công năng có ích nào cho các thân thể sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do gặp mặt với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống tiêu chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim khí nặng , nhưng có mật hiệu của ngộ độc nếu nó được tiếp thụ nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất vô nhị sinh ra sự ngộ độc nhôm. Địa ngục ta cho rằng nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dù các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.



    Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp kiến với một số chất hóa học nào đó có xác xuất ăn mòn nó rất nhanh. Nếu , chỉ một lượng nhỏ thủy ngân gặp mặt với bề mặt của miếng nhôm có khả năng phá hủy lớp ôxít nhôm gác canh bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có kiến trúc nặng nề có thể bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt kế thuốc độc không được phép trong nhiều sân bay và hãng Kĩ sư , vì nhôm là thành phần nông dân kiến trúc căn bản của các máy bay.



    Hóa học [ sửa sửa mã nguồn ] thể trạng ôxi hóa 1 [ sửa sửa mã nguồn ] AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .

    Al 2 O được điều chế bằng cách nung nóng ôxít thông thường , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .

    Al 2 S được điều chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó chóng vánh bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được phối chế tương tự.

    AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.

    trạng thái ôxi hóa 2 [ sửa sửa mã nguồn ] Subôxít nhôm , AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .

    thể trạng ôxi hóa 3 [ sửa sửa mã nguồn ] quy tắc tam suất Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong chờ tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chẳng hạn như cacbonat , chẳng thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chẳng hạn như nitrat , là yên ổn và hòa tan trong nước , tạo thành các hiđrat với chí ít sáu phân tử nước kết tinh .

    Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có thể làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được pha chế bằng biến hóa của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.

    Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hổ lốn hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới Rắc rối , và biến hóa với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.

    Nitrua nhôm , AlN , có khả năng được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .

    Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).

    Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong tự nhiên như là corunđum , và có xác xuất điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum . Nó gần như không hòa tan trong nước.

    Hiđrôxít nhôm có xác xuất được phối chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có xác xuất tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.

    Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có thể điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.

    Florua nhôm , AlF 3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố tác dụng với nhau hay cho hiđrôxít nhôm hiệu quả với HF. Nó tạo thành phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.

    Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , nếu trimêtyl nhôm .

    Các chất alumino-hyđrua của phần nhiều các nguyên tố có khả năng tích điện dương đã được biết , trong đó đáng được coi trọng nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều ứng dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có kiến trúc tương tự.

    ảnh hưởng lên cây cỏ [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm Ấy là một trong những yếu tố làm giảm sự tăng trưởng thực trên các đất chua. Mặc dù nó không đặt vào thế bất lợi đối với sự phát triển của thực vật ở các đất có độ pH trung tính , khi nồng độ của cation Al 3+ trong đất chua tăng và làm rối loạn sự phát triển và công năng của rễ. [21] [22] [23] [24]



    hầu hết các đất chua được bảo hòa với nhôm hơn là các ion hydro. Chỉ số hydrogen của đất là kết quả của quá trình thủy phân các hợp chất nhôm. [25] Khái niệm dùng vôi để điều chỉnh độ pH [26] để xác định mức độ bảo hòa cơ sở trong các loại đất là cơ sở cho các công đoạn thử nghiệm đất trong phòng thí nghiệm , từ đó rõ ràng lượng vôi cần thiết [27] cung cấp cho đất. [28]





    Quy trình làm ra nhôm định hình

    Quy trình làm ra nhôm được thực hiện theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 sử dụng công nghệ sản xuất nhôm tiền tiến , cho sản phẩm đạt chất lượng và độ không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro cao.

    quy trinh san xuat nhom thoi

    1. Nguyên liệu được nhập về dưới dạng thỏi thô , gọi là phôi nhôm.



    2. Thỏi nhôm được thẩm tra phân tích thành phần kim khí trước khi đưa vào lò nấu.



    3. Quá trình đúc nguyên liệu:



    hàng đầu là quá trình đúc phôi , sản phẩm nhôm thuần chất Igot được đưa vào lò nung chảy ở nhiệt độ 660 độ C và tới nhiệt độ sôi , tiếp đến diễn ra quá trình hợp kim khí và quá trình này sẽ quyết định chủng loại nhôm đúc là nhôm nào , sản phẩm hợp kim nhôm đã nấu chảy được rót vào khuôn để thành hình billet và quá trình này sẽ cho ra các loại sản phẩm đường kính khác nhau theo đề nghị , billet sau đúc được đồng tính để tạo sự đồng đều của hợp kim và yên ổn của kiến trúc sau thời gian ấy nó được cắt thành các đoạn tiêu chẩn và ra phôi là billet.



    Công đoạn chế tạo billet

    quy trình sản xuất nhôm quá trình đúc phôi trong quy trình sản xuất nhôm







    4. Phôi nhôm sau khi phân tích thành phần kim loại đạt request sẽ được cắt thành từng đoạn nhỏ phù hợp với từng loại thanh nhôm rồi đem gia nhiệt và chuyển vào máy ép cho ra thanh nhôm định ảnh theo khuôn đã thiết kế.



    5. Thanh nhôm vừa ép ra tiếp chuyện được đưa vào lò hấp để xử lý độ cứng cho thanh nhôm có được sự chắc cần thiết.



    6. Sau khi xử lí độ cứng thanh nhôm phải qua khâu kiểm tra công năng vật lý. Ví như đạt đề nghị các chức năng vật lý sẽ được đem đi xử lí bề mặt.



    7. Quá trình xử lí bề mặt cho ra 3 dòng sản phẩm khác nhau: Xi dương cực , sơn tĩnh điện , sơn vân gỗ.



    Công đoạn định hình nhôm



    quá trình đúc phôi trong quy trình làm ra nhôm





    Công nghệ sản xuất nhôm định hình

    + Phân xưởng đùn ép thanh nhôm định hình chất lượng cao



    + Phân xưởng anode xử lý và trang trí bề mặt thanh nhôm bằng phương pháp Anode hoá.



    + Phân xưởng sơn tĩnh điện và phủ film , xử lý và trang hoàng bề mặt thanh nhôm bằng phương pháp sơn tĩnh điện và phủ film.



    thẩm tra

    - Máy phân tích thành phần nông dân của sản phẩm



    - Máy thẩm tra dị tật đầu vào và đầu ra của sản phẩm



    - Máy phân tách tổ chức kim loại , Máy gia công khuôn điều khiển CNC , phòng phân tách bể hoá chất Anod và tiền xử lý



    - Máy thử độ bền kéo , thử độ bền uấn , Máy đo độ cứng bề mặt , Máy rõ ràng chiều dày của lớp phủ bề mặt , Máy thử độ mất màu



    Vật tư sản xuất nhôm định ảnh

    + nguyên liệu cho khâu đùn ép – Billet 100% nhập khẩu từ Australia , Malaysia , Thái lan và một số nước công nghiệp tiền tiến , Billet đều được biến tính Bo và Ti , và đồng hoá , đều được thẩm tra qua máy thẩm tra khuyết tật trước khi đùn ép , đảm bảo tạo ra được những sản phẩm nhôm thanh định hình chất lượng cao đáp ứng được các công trình có đề nghị cao về chất lượng.



    Các quy định Billet:



    Các quy định về thành phần hoá học:



    + vật liệu cho khâu đùn ép – Billet 100% nhập khẩu từ Australia , Malaysia , Thái lan và một số nước Công lao tiên tiến , Billet đều được biến tính Bo và Ti , và đồng hoá , đều được thẩm tra qua máy thẩm tra khuyết tật trước khi đùn ép , đảm bảo tạo ra được những sản phẩm nhôm thanh định ảnh chất lượng cao đáp ứng được các công trình có yêu cầu cao về chất lượng.
     

Chia sẻ trang này

Đang tải...