nhôm thanh U - V - O - Hộp các loại

Thảo luận trong 'Mẹo vặt' bắt đầu bởi lephuc01, 16/5/17.

  1. lephuc01

    lephuc01 Đã đăng ký

    Bài viết:
    49
    Đã được thích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    chuyên sx cung cấp sỉ lẻ nhôm thanh U - V - O - Hộp các loại

    lh 0937655551 - 0983994326

    nhà máy: Ấp 5 xã vĩnh lộc B huyện bình chánh

    văn phòng: thiên phước f9 quận tân bình



    wed tham khảo: bán nhôm U các loại


    [​IMG]


    ========================================================================================================

    Nhôm là kim loại nhẹ quan trọng nhất trong cuộc sống con người và là một trong bốn kim khí màu cơ bản. Hiện nay , nhôm và các hợp chất của nhôm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực sản xuất và hoàn cảnh sống như chế tạo tàu bay , ôtô , kỹ thuật điện , xây dựng , sản xuất gạch chịu lửa , sản xuất sơn , phèn , công cụ gia đình , ... Về khối lượng sử dụng , nhôm chỉ đứng sau thép. Nhôm còn được sử dụng nhiều trong Công lao quốc phòng , nên được coi là một trong những kim khí chiến lược.



    >> Bài liên quan: Từ bauxite đến nhôm



    Phát triển công nghiệp nhôm sẽ góp phần Công lao hóa và hiện đại hóa núi sông , tạo hoàn cảnh phát triển các ngành công nghiệp liên tưởng ở trung ương và xứ sở , phát triển kinh tế tầng lớp , nâng cao dân trí cho đồng bào vùng miền núi. Công lao nhôm phát triển sẽ góp phần tăng kim ngạch xuất biên , cân đối ngoại tệ , tăng thu ngân sách , tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho hàng vạn người lao động.



    Nếu chỉ tính riêng ngoại tệ để nhập nhôm kim loại , hàng năm nước ta phải như một lượng ngoại tệ lớn như sau:



    Năm 2000 : khoảng 160 triệu USD



    Năm 2005 : khoảng 250 triệu USD



    Năm 2010 : khoảng 390 triệu USD



    Năm 2015 : khoảng 480 triệu USD



    Trong thiên nhiên , do hoạt tính cao nên nhôm chỉ tồn tại ở dạng các hợp chất , cốt tử trong các loại khoáng là felspat ( trường thạch ) và glimme cũng như sản phẩm phong hóa của chúng là các loại đất sét. Trong số các felspat và glime gồm có : kali felspat ( KAlSi 3 O 8 , natri felspat ( NaAlSi 3 O 8 ) , canxi felspat CaAl 2 Si 2 O 8 , muscovit KAl 2 ( AlSi 3 O 10 )( OH , F ) 2 , margarit CaAl 2 ( Al 2 Si 2 O 10 )( OH ) 2 , zyanit Al 2 O( SiO 4 ) , ... Trong số các loại đất sét chứa nhôm thì quan trọng nhất là boxit với thành phần là hổ lốn các khoáng nhôm hydroxit khác nhau , tiếp theo là cao lanh có thành phần cốt yếu là Al 4 ( OH ) 8 Si 4 O 10 , kryolit với thành phần nông dân là Na 3 ( AlF 6 ) , và một số khoáng đất sét chứa nhôm với hàm lượng canxi , manhê hoặc sắt oxit cao.



    I. QUẶNG BOXIT



    Boxit là nham thạch có màu từ trắng đến đen , cốt yếu là hỗn hợp các hợp chất vô cơ và nhôm hydoxit. Loại boxit thường gặp có vẻ đan. Các loại hình quặng boxit quan trọng là bơsmit , gipsit ( hydragilit ) , diaspo , alumogel.



    Boxit có thành phần tương đối không đơn giản , nhưng cốt tử là hỗn tạp các khoáng nhôm hydroxit , thường bị nhiễm bẩn bởi sắt oxit ( tạo ra vẻ son cho quặng ) hoặc silic oxit. Thành phần nông dân hóa học của boxit sờn lòng giữa 50-63% Al 2 O 3 , 12-32 % H 2 O , 15-25 % Fe 2 O 3 , 2-10 % SiO 2 và 2-5 % TiO 2 .



    Hàm lượng nhôm oxit và silic oxit là những yếu tố quyết định chất lượng của quặng boxit.



    Nhôm oxit trong quặng boxit cốt yếu ở trong thành phần nông dân của hydroxit như diaxpo , bơmit , gipsit hoặc bayerit. Ngoại giả , nhôm oxit trong boxit còn có xác xuất ở dạng corundum và trong thành phần nông dân khoáng của nhóm caolinit.



    Silic oxit trong quặng boxit nằm ở thể trạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc , nhưng cũng có thể trong thành phần khoáng alumosilicat và aluomopherosilicat. Silic oxit có có tác động đến một điều gì đó bất lợi cho quá trình hòa tan quặng boxit , vì nó tạo thành natri alumosilicat ít tan , làm tăng mất mát kiềm và nhôm , song song làm tắc đường ống và thiết bị.



    Sắt trong quặng boxit có thể thuộc vào các nhóm sau:



    - Nhóm oxit và hydroxit bao gồm hematit ( a -Fe 2 O 3 , g -Fe 2 O 3 ) , hydrohematit ( Fe 2 O 3 aq. ) , manhêtit ( Fe 3 O 4 ) , hetit ( HFeO 2 ) , limonit ( HFeO 2 aq. ).



    - Nhóm cacbonat bao gồm siderit FeCO 3 , ankerit Ca( MgFe( CO 3 ) 2



    - Nhóm silicat gồm samozit với thành phần nông dân chủ yếu là FeO , Al 2 O 3 , SiO 2 .



    - Nhóm sulfit và sunfat như FeS 2 , FeSO 4 .7H 2 O , Fe( SO 3 )( OH ).2H 2 O , KFe( SO 2 )( OH ) 3 .



    Titan oxit trong quặng boxit cũng ở thể trạng tự do là rutin và anataz , hoặc ở các dạng hợp chất khác nhau như sphen CaTiO 2 SiO 2 , perobskit CaTiO 3 , ilmenit FeTiO 3 . Các hợp chất titan có khả năng có tác động đến một điều gì đó bất lợi cho quá trình hòa tan nhôm..



    1. Tiềm n ăng qu ặng boxit của Việt Nam:



    Cuối cùng thăm dò địa chất đã phát hiện trên cương vực nước ta có trữ lượng quặng boxit phong phú ở cả Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam. Tổng trữ lượng quặng boxit của Việt Nam ước tính khoảng 8 tỷ tấn , trong đó có 7 , 6 tỷ tấn ở các tỉnh Tây Nguyên. Với trữ lượng như vậy , nước ta đứng trong số các nước có trữ lượng boxit lớn trên thế giới.



    Quặng boxit là nguồn tài nguyên lớn của nước ta , là cơ sở để hình thành ngành công nghiệp luyện nhôm , là nguồn lực quan yếu trong quá trình Công lao hóa , đương đại hóa đất nước.



    mặc dù nhôm kim loại là sản phẩm quan trọng cho ngành kinh tế quốc dân và nước ta có sẵn nguồn vật liệu cũng như các điều kiện khác để sản xuất nhôm kim loại ( thuỷ điện , nhân lực... ) nhưng ngày nay chúng ta vẫn chưa sản xuất được nhôm kim khí. Do vậy , một trong mục đích mà chính phủ đã đề ra là xây dựng mới ngành Công lao nhôm Việt Nam , đáp ứng nhu cầu nhôm trong nước , tranh thủ xuất cảng một phần sản phẩm sang các nước chung quanh , tạo cơ sở vật chất kỹ thuật ban sơ và hàng ngũ quản lý , kỹ thuật , song song tích luỹ vốn để phát triển công nghiệp nhôm lâu dài với quy mô lớn , nhằm khai thác nguồn boxit sẵn có để xuất biên các sản phẩm alumin và nhôm.



    Việt Nam có hai loại hình quặng boxit:



    1/ Loại quặng bơsmit và diaspo , tập kết cốt yếu ở Miền Bắc Việt Nam , phân bố ở các tỉnh Hà Giang , Cao Bằng , Lạng Sơn , Bắc Giang ). Tổng trữ lượng dự đoán khoảng trên 350 triệu tấn , hàm lượng nhôm nao núng trong khoảng 39-65 %. Modul silic ( Al 2 O 3 /SiO 2 ) bằng 5-8. Cụ thể , quặng boxit thành phần như sau:



    - nhóm tụ khoáng Hà Giang: tài nguyên ước lượng khoảng 60 triệu tấn.



    - nhóm tụ khoáng Cao Bằng: tài nguyên ước đoán khoảng 240 triệu tấn.



    - nhóm tụ khoáng Lạng Sơn: tài nguyên đã được thăm dò và ước đoán khoảng 50 triệu tấn.



    - Mỏ Lỗ Sơn ( Hải Dương ) có trữ lượng cấp B là 97.000 tấn , trữ lượng cấp C 1 là 24.000 tấn , với hàm lượng như sau:



    Al 2 O 3 : 52 %



    SiO 2 : 6 , 4 %



    Fe 2 O 3 : 26 %



    TiO 2 : 2 %



    CaO : 0 , 53 %



    MgO : 0 , 24 %



    Mất khi nung : 12 %



    - Vùng Quỳ Hợp - Quỳ Châu có tài nguyên dự trù khoảng 1 triệu tấn với hàm lượng như sau:



    Al 2 O 3 : 30 - 50%



    SiO 2 : 2 , 12 - 36%



    Fe 2 O 3 : 18 - 30%



    2/ Loại quặng gipsit , tập trung chính yếu ở Tây Nguyên và Miền Nam Việt Nam , với tổng trữ lượng ước lượng khoảng 7 , 6 tỷ tấn.



    Trữ lượng quặng boxit đã được thăm dò và chứng minh ở Tây Nguyên và Miền Nam Việt Nam là khoảng 2772 triệu tấn. Trong đó cụt thun lủn các khu vực ấn độ dương như sau:



    * Tài nguyên vùng Đắc Nông - Phước Long khoảng 1.570 triệu tấn



    * Tài nguyên boxit vùng Lâm Đồng tập kết ở hai tụ khoáng là Tân Rai và Bảo Lộc.



    - Trữ lượng vùng khoáng Tân Rai khoảng 57 triệu tấn cấp C 1 , 120 triệu tấn cấp C 2 , hàm lượng như sau:



    Al2O3 44 , 69 %

    SiO2 2 , 61 %

    Fe2O3 23 , 35 %

    TiO2 3 , 52 %

    Mất khi nung

    24 , 3 %



    - Trữ lượng vùng tụ khoáng Bảo Lộc khoảng 378 triệu tấn.



    nhìn chung , quặng boxit nguyên khai ở Lâm Đồng đều có chất lượng không cao , hàm lượng Al2O3 chỉ khoảng 35 - 37%. Người ta phải tuyển rửa quặng nguyên khai để thu được tinh quặng giàu nhôm hơn. Sau khi tuyển , tinh quặng boxit ở các tụ khoáng Lâm Đồng cũng chỉ đạt hàm lượng 45 - 49% Al2O3.

    ngoài ra , quặng boxit miền Nam còn có ở các vùng Kon Plong , Phú Yên , Quảng Ngãi , với trữ lượng khoảng 106 triệu tấn. Nhìn chung , boxit Việt Nam ở hồ hết các vùng đều có khả năng khai thác lộ thiên.



    Tuy nhiên , trừ những khu mỏ lớn ở Lâm Đồng , trữ lượng quặng còn lại được kết cấu dàn trải , vỉa quặng không dày và hồ hết đều nằm trong các vùng Cày cấy nông , lâm nghiệp , nên sẽ có những khó khăn một mực trong quá trình khai thác để làm ra nhôm quy mô lớn , do đụng chạm trực tiếp đến việc sử dụng đất Cày cấy , vấn đề thăng bằng nước mặt , vấn đề quặng thải , Sự tình nước thải và nói chung là Sự tình sinh thái.



    2. Áp dụng



    áp dụng cốt yếu của boxit là làm vật liệu cho công nghiệp luyện nhôm. Bộ môn công nghiệp sản xuất nhôm kim khí tiêu thụ 85% quặng boxit trên toàn thế giới. Phần boxit còn lại được sử dụng trong hai chuye là sản xuất alumin chuyên dùng ( 10% ) , bao gồm alumin nung và alumin hoạt hóa , và làm ra nguyên liệu chịu lửa ( 5% ) , nếu gạch chịu lửa , ximăng chịu nhiệt và các nguyên liệu mài.



    II. QUẶNG CAO LANH



    Quặng cao lanh là nham thạch mịn , tỷ trọng cao , chính yếu gồm khoáng caolinit có lẫn tạp chất , được làm nên khi phong hóa các nham thạch felspat macma khác nhau. Cao lanh nguyên chất màu trắng bong , nhưng quặng cao lanh thường thấy các màu khác nhau do nhiễm các tạp chất sắt và mangan. Thành phần hóa học cốt yếu là Al 4 ( OH ) 8 Si 4 O 10 , với các tạp chất như thạch anh , muskovit , rutil , zircon , manhêtit và felspat chưa phong hóa hết. Quặng cao lanh hình thành do sự phong hóa các silikat nhôm , đặc biệt là các loại felspat. Phần lớn quặng cao lanh tồn tại ở các mỏ nguyên sinh , thỉnh thoảng ở các mỏ thứ sinh , ít khi ở dạng đất sét.



    1. Tiềm n ăng qu ặng cao lanh của Việt Nam:



    Quặng cao lanh nước ta được thành phần ở nhiều nơi như: Lào Cai , Yên Bái , Phú Thọ , Thái Nguyên , Tuyên Quang , Hải Dương , Quảng Ninh , Đà Lạt , Đồng Nai , Sông Bé. Trong đó những mỏ quặng cao lanh đã được thăm dò , khai thác là:



    - Mỏ Thạch Khóan , Phú Thọ gồm 4 vùng với tổng trữ lượng đã xác định khoảng 3 , 2 triệu tấn. Trong số đó , vùng mỏ cao lanh Hữu Khánh là vùng mỏ đáng được coi trọng Công lao với hàm lượng quặng như sau:



    Al 2 O 3 18 - 49%

    SiO 2 47 , 5 - 76 , 1%

    Fe 2 O 3 0 , 11 - 2 , 9%

    Mất khi nung 9 , 81%





    - Mỏ Trại Mật , Lâm Đồng , với tổng trữ lượng đã thăm dò là 11 triệu tấn. Mỏ có 4 thân quặng , dày nhàng nhàng 20 m. Hàm lượng nhàng nhàng như sau:



    Al 2 O 3 18 - 49%

    SiO 2 22 , 8 - 65%

    Fe 2 O 3 0 , 5 - 7 , 9%

    Mất khi nung 0 , 16 - 22 , 5%





    Trong tổng trữ lượng đã được thăm dò ở mỏ Trại Mật , khoảng 3 triệu tấn là có xác xuất khai thác tốt.







    - Mỏ Bảo Lộc hiện đạt công suất khai thác , tuyển rửa là 35.000 tấn/năm. Chất lượng quặng boxit tinh sau khi tuyển rửa là:



    Al 2 O 3 : 49%

    SiO 2 : 2 - 3%

    Fe 2 O 3 : 18 - 22%

    TiO 2 : 3 - 4%

    Hàm ẩm : 10%



    - Các mỏ cao lanh Tấn Mài ( Quảng Ninh ) , Trúc Thôn ( Hải Dương ) , Tuyên Quang đã được khai thác dùng làm gạch chịu lửa cho công ty sắt đá Thái Nguyên. Cao lanh Tấn Mài ở dạng dickit và có thành phần nông dân hóa học như sau:



    Al 2 O 3 : 37 , 43%

    SiO 2 : 43 , 88%

    Fe 2 O 3 : 0 , 18%

    TiO 2 : 0 , 03%

    Na 2 O: 0 , 03%

    K 2 O : 0 , 05%

    P 2 O 5 : 0 , 09%

    MgO: 0 , 15%

    CaO: 0 , 21%



    ngoài ra , một số mỏ quy mô nhỏ ở các Vùng đất như Yên Bái , Phú Thọ , Hải Dương , Đồng Nai , Sông Bé đã được sử dụng để khai khẩn cao lanh làm vật liệu sản xuất gốm sứ dân dụng , gốm sứ kỹ thuật , phèn nhôm , ...







    2. Vận dụng









    Từ cao lanh thô khai khẩn ở các mỏ , người ta vận dụng các phương pháp như rửa bùn , tuyển nổi , thẩm lậu điện , ...để thu được cao lanh kỹ thuật.



    Do những thuộc tính đặc biệt của nó ( dẻo ở trạng thái ẩm , rất cứng và bền sau khi nung ) nên cao lanh thường được sử dụng để sản xuất các sản phẩm gốm sứ. Ngoại giả , cao lanh cũng được sử dụng làm phụ gia sản xuất giấy ( tạo bề mặt nhẵn , hút mực ) , làm ra các vật liệu chống thấm trong xây dựng , ... Cao lanh còn là vật liệu quan yếu để sản xuất các hợp chất nhôm.







    III. THỰC TRẠNG khai thác VÀ sản xuất









    nói chung , các mỏ quặng boxit Việt Nam có những đặc trưng chính như sau:



    ưu điểm : Mỏ tự do tương đối lớn , lớp đất phủ mỏng , chiều dày lớp chứa quặng thay đổi từ 1 đến 12m , không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả có xác xuất khai khẩn bằng phương pháp lộ thiên , dễ dàng hoàn thổ và trồng lại rừng hoặc cây công nghiệp , quặng có hàm lượng nhôm oxit ở mức làng nhàng , quặng Miền Nam thuộc loại thuần tuý gipsit nên dễ xử lí ở nhiệt độ thấp , đầu tư không lớn , phí tổn vận hành thấp. Tuy quặng nguyên khai có chất lượng không cao nhưng bằng thủ pháp tuyển rửa giản đơn có khả năng nhận được tinh quặng có kiên cố để sản xuất alumin theo phương pháp Bayer.



    Nhược điểm : Lớp quặng mỏng nên khai học phát triển nhanh , hầu như tuốt quặng đều cần phải được tuyển rửa nên mất mát nhiều nước. Hầu như các mỏ đều nằm xa cảng biển , hạ tầng cơ sở chưa phát triển.



    Vì những điểm nêu trên nên theo ý kiến nhiều chuyên gia trong và ngoài nước , quặng boxit Việt Nam nếu xử lí tại chỗ để làm ra alumin và nhôm thì chất lượng cao hơn mức bình thường hơn là xu ất khẩu quặng.



    1. Sản phẩm nhôm kim khí



    bây giờ , do chưa làm ra được nên chúng ta phải nhập tuốt nhôm. Trong mai sau , cùng với sự phát triển kinh tế , nhu cầu về nhôm kim loại sẽ càng ngày càng tăng. Mặt khác , thịt thà nhập cảng nhôm ở các nước xung quanh cũng rất lớn. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải chóng vánh phát triển Công lao khai khẩn boxit và luyện nhôm để đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng tới xuất biên nhôm khi có điều kiện.



    Đối với quặng boxit ở khu vực Lâm Đồng , là nơi có trữ lượng boxit lớn nhất , hiện nay chúng ta mới chỉ khai thác và sử dụng để sản xuất nhôm oxit và phèn nhôm.



    Trong những năm qua , Tổng công ti khoáng sản Việt Nam và công ti Pechiney ( Pháp ) đã liên doanh tiến hành khảo sát tiền khả thi và thực hiện dự án Tổ hợp boxit nhôm Lâm Đồng. Đây là một trong những đề án trọng điểm , có quy mô lớn. Cuối năm 2002 , UBND tỉnh Lâm Đồng đã chính xác khu vực khai khẩn mỏ , tuyển quặng và vịt đàn xây dựng các nhà máy alumin , điện phân nhôm trong tổ hợp.



    Tổ hợp boxit-nhôm Lâm Đồng nằm ở địa bàn huyện Bảo Lâm ( khu khoáng sàng Tân Rai ) , có tổng vốn đầu tư hơn 667 triệu USD.



    đề án boxit Lâm Đồng bao gồm hai giai đoạn:



    - thời kì đầu từ 2003 đến 2013 , dự kiến tổ hợp boxit - nhôm sẽ đạt công suất hàng năm là 72.300 tấn nhôm điện phân , 300.000 tấn alumin ( trong đó 141 nghìn tấn để điện phân nhôm , còn lại sẽ xuất cảng ) , khai khẩn mỏ 1.980.000 tấn quặng nguyên khai. -



    - giai đoạn hai ( giai đoạn mở rộng ) từ 2013 trở đi , công suất sẽ được nâng lên gấp 2 lần , đạt 146.100 tấn nhôm điện phân , 600.000 tấn alumin ( trong đó 284 nghìn tấn để điện phân nhôm , còn lại sẽ xuất cảng ) và khai thác mỏ 3.960.000 tấn quặng nguyên khai.



    Trong vài năm qua , 5 thân quặng số 46 , 51 , 52 , 53 , 54 tại chuye phía tây mỏ Tân Rai đã được tuyển trạch đưa vào khai thác phục vụ người ốm cho cả dự án , có diện tích 40 km2 , nằm cách thị xã Bảo Lộc 15 km , cách thành phố HCM khoảng 200 km , cách Đà Lạt 120 km. Đồng thời cũng đã chuẩn bị mặt bằng xây dựng nhà máy alumin và nhà máy điện phân nhôm thực dân địa phận thịt thà Lộc Thắng huyện Bảo Lâm , có diện tích khoảng 118 , 5 ha. Lĩnh vực khai khẩn mỏ và tuyển quặng có tổng diện tích 42 km 2 , nằm ở địa bàn thịt Lộc Thắng và hai xã Lộc Phú , Lộc Ngãi ( Bảo Lâm ).



    Về công nghệ khai thác , trong quá trình khai thác sẽ tiến hành liên hoàn từ bóc đất phủ đến khai khẩn quặng , thực hiện theo công nghệ sử dụng bãi thải trong phối hợp với bãi thải ngoài. Boxit được khai thác cốt tử trên các đỉnh đồi nhằm hạ độ cao và độ dốc của đồi , tạo hoàn cảnh cho việc tái tạo rừng và cây trồng cũng như phát triển kinh tế nông lâm nghiệp rồi đây. Trong quá trình khai thác và tuyển rửa , lượng bùn thải sẽ được lắng đọng trong của hồ nhân tạo. Nước được thải đi hoặc hồi lưu sau khi đã lắng trong.



    Về công nghệ làm ra nhôm , tổ hợp boxit-nhôm Lâm Đồng áp dụng công nghệ điện phân tiên tiến của tập đoàn nhôm Pechiney theo phương thức chuyển giao công nghệ , sử dụng điện cực thiêu sẵn , nạp liệu điểm tự động , dòng điện 185 kA , bể điện phân AP-18. Đây là thủ pháp điện phân nhôm nóng chảy theo công nghệ Hall-Heroult , tức là điện phân alumin hòa tan trong dung dịch muối nóng chảy criolit ở nhiệt độ 950-960 o C. Phương pháp này là công nghệ sản xuất nhôm công nghiệp độc nhất vô nhị , đã tồn tại hơn 100 năm nay. Sản xuất alumin được thực hiện theo thủ pháp hoà tách ở 105 o C và áp suất khí quyển.



    Về mặt giao thông tải , trong giai đoạn đầu quặng boxit khai khẩn được tải bằng đường bộ , chủ yếu theo tuyến đường 20. Sau này , trong thời kì mở mang sẽ xây dựng tuyến sắt Bảo Lộc - Thị Vải để xuất biên alumin và nhập khẩu nguyên vật liệu phù hợp cho tổ hợp.



    Theo toan tính , sau 30 năm hoạt động , chỉ với công suất ban sơ đề án sẽ đóng góp cho nhà nước gần 328 triệu USD gồm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế tài nguyên. Ngoài ra còn có các nguồn lợi khác như thu ngoại tệ từ xuất biên alumin và tiết kiệm ngoại tệ do không phải nhập cảng nhôm ( 4709 triệu USD ). Đề án cũng sẽ có những đóng góp rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế tầng lớp của địa phương.



    2. Các hợp chất nhôm



    hiện tại trên 90% sản lượng Al 2 O 3 kỹ thuật trên thế giới được dùng để luyện nhôm , chỉ khoảng 10 % được sử dụng cho các khu vực phi luyện kim. Do vậy vai trò của nguyên liệu giàu nhôm trở thành rất quan trọng đối với các ngành sản xuất gốm , thuỷ tinh , xi măng alumin , phèn nhôm , bột mài , cao su , .. , nhất là khi Việt Nam chưa có ngành Công lao riêng để làm ra nguyên liệu này.



    Nhôm oxit Al 2 O 3 là nguyên liệu được sử dụng nhiều để làm ra gạch chịu nhiệt , các sản phẩm sao thủy , gốm sứ và một số loại xi măng chịu nhiệt. Hàng năm nước ta phải nhập khoảng 10.000 tấn nhôm oxit.



    Nguồn nguyên liệu alumin của nước ta , ngoài boxit Lâm Đồng còn có cao lanh Tấn Mài-Quảng Ninh , cao lanh Yên Bái , boxit Lạng Sơn và Quảng Ninh , ... Có thể nói trữ lượng vật liệu cho công nghiệp tinh chế nhôm oxit của Việt Nam khá lớn nên ngành công nghiệp này có tương lai phát triển tốt.



    Tại nước ta , năm 2001 công ty hóa chất cơ bản Miền Nam đã đầu tư dây chuyền sản xuất nhôm oxit có công suất 400 tấn / năm , ứng dụng công nghệ lò thoi ngắt quãng từng mẻ. Chất lượng sản phẩm nhôm oxyt của công ty đạt hàm lượng Al 2 O 3 ≥ 99 , 1 % , hàm lượng sắt ≤ 0 , 1 %.



    Nhôm oxit kỹ thuật thường được sản xuất bằng cách nung nhôm hydroxyt ở những nhiệt độ khác nhau như sau :



    - Sấy ở nhiệt độ dưới 300 o C : thu được Al 2 O 3 .3H 2 O dạng hydragilit



    - Sấy tiếp ở 300-400 o C: thu được Al 2 O 3 .H 2 O dạng bơsmit



    - Nung trên 500 o C : thu được g - Al 2 O 3 ( thành phần chính của nhôm oxit kỹ thuật thông thường )



    - Nung trên 1000 o C : g - Al 2 O 3 chuyển hóa thành a - Al 2 O 3 ( corun , nhôm oxit kỹ thuật nung )



    Hàm lượng Al 2 O 3 thu được có xác xuất đạt tới 99 - 99 , 5% tuỳ theo biện pháp rửa và tinh luyện. Đặc biệt độ mịn , hàm lượng pha tinh thể a - Al 2 O 3 ( corun ) và mức độ chuyển hóa thành a - Al 2 O 3 phụ thuộc dồi dào vào biện pháp nung và cách xử lý nhiệt.



    Nhôm oxyt kỹ thuật sản xuất theo biện pháp Bayer truyền thống chủ yếu chứa khoáng g - Al 2 O 3 . Đây là sản phẩm trung gian sau khi nung nhôm hydroxyt ở nhiệt độ trên 500 o C. Nhược điểm của sản phẩm loại này là hàm lượng tạp chất kiềm Na 2 O cao và khó tách , gây bất lợi cho sản xuất gốm và nguyên liệu chịu lửa. Khi sử dụng loại nhôm oxyt kỹ thuật này trong Công lao gốm sứ , người ta phải xử lý gia công rất không đơn giản và tốn kém: phải nung sơ bộ ở nhiệt độ cao ( khoảng 1450 o C ) rồi nghiền mịn lại trong máy nghiền bi thép hoặc nghiền rung , tiếp theo phải rửa sắt bằng axit rồi rửa lại bằng nước sạch , rồi mới đưa vào sử dụng trong phối liệu gốm sứ.



    Vào thập niên 1970 - 1980 , trên thế giới đã có nhiều công trình Học hỏi xử lý nhôm oxyt kỹ thuật dùng cho gốm và vật liệu chịu nhiệt , nhưng khi áp dụng thực tế thì chi phí sản xuất quá lớn , công hiệu không cao , giá thành sản phẩm cao nhưng chất lượng lại giữ lại. Sang thập niên 1990 , bằng những tốt hơn trước kỹ thuật , nhiều công ty hóa chất trên thế giới đã vận dụng phương pháp sol-gel , sa lắng hóa học hoặc plasma hóa học để sản xuất các loại Al 2 O 3 kỹ thuật nung với độ tinh khiết 99 , 7 % , hàm lượng tạp kiềm < 0 , 05 % , và đặc biệt là có cỡ hạt kích thước hoặc kết cấu cực kỳ nhỏ ( 5-10 mm ) với thành phần pha ≥ 95 % dạng a - Al 2 O 3 . Loại vật liệu này đã tạo ra bước đột phá trong công nghiệp gốm kỹ thuật , mở ra khả năng làm ra các loại bê tông gốm ít xi măng , siêu ít xi măng hoặc không dùng xi măng thủy lực ( xi măng alumin ) , gốm cắt gọt , gốm bền nhiệt , bền cơ , gốm cách điện cao thế , nguyên liệu chịu lửa cao , alumin chất lượng cao , ... Có khả năng nói , trong thế kỷ 21 ngành sản xuất nhôm oxyt kỹ thuật nung đã không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả từ bỏ các công nghệ truyền thống của thập niên 80.



    Với công nghệ mới , giá thành sản phẩm nhôm oxyt nung siêu sạch , kích thước hoặc kết cấu cực kỳ nhỏ không đắt hơn nhiều so với nhôm oxyt kỹ thuật dạng g - Al 2 O 3 truyền thồng. Vì thế , hiện tại sản phẩm nhôm oxyt kiểu mới đã trở nên vật liệu phổ biến cho ngành công nghệ gốm kỹ thuật và vật liệu chịu nhiệt , bê tông gốm.



    Để làm ra nhôm oxit a - Al 2 O 3 ( corun ) dùng cho sản xuất các mặt hàng gốm kỹ thuật và vật liệu chịu nhiệt cao cấp , các cơ sở trong nước ta cần định hướng theo công nghệ hiện đại của các nước đã làm , đó là nung kết tủa từ chế phẩm trung gian keo gel Al 2 ( OH ) 3 để thu được các dạng nhôm oxit kỹ thuật nung siêu mịn , siêu sạch , đạt độ chuyển hóa thành a - Al 2 O 3 ( corun ) trong sản phẩm nhôm oxit trên 95% ( Các quy định quốc tế về chất lượng nhôm oxit kỹ thuật nung ).



    Nhôm hydroxyt là sản phẩm trung gian để làm ra nhôm oxit và nhôm sunfat. Nhôm hydroxyt thường được làm ra từ quặng boxit theo công nghệ Bayer với những bước căn bản như sau:



    - đập vụn , sấy và nghiền mịn quặng



    - phối trộn với dung dịch NaOH đặc



    - hòa tách trong nồi hấp ở nhiệt độ và áp suất cao trong vài giờ



    - rửa tách bùn đỏ ( gồm các hợp chất sắt , titan , silic , ... )



    - lọc dung dịch aluminat , khuấy trộn dung dịch này vài ngày trong thiết bị phân giải , tách nhôm hydroxyt kết tủa.



    Sản phẩm nhôm hydroxyt dạng gel có thể được xử lí nhiệt để tạo ra các sản phẩm Al 2 O 3 kỹ thuật tuỳ theo nhiệt độ xử lý.



    Ở nước ta chỉ có duy nhất nhà máy hóa chất Tân Bình tại thành phố Hồ Chí Minh có dây chuyền làm ra nhôm hydroxyt , với công suất yên ổn hiện tại là 11.000 tấn/năm. Nhà máy sử dụng quặng tinh từ khu mỏ Trại Mát , biểu Lộc. Nguyên liệu boxit này có nguyên lai bơsmit và hàm lượng Al 2 O 3 khá cao ( khoảng 47 % ) , tuy nhiên hàm lượng Fe 2 O 3 và SiO 2 cũng khá lớn , đặc biệt là Fe 2 O 3 . Chỗ tốt của loại boxit này là ngậm nước nên mềm , dễ gia công. Công nghệ sản xuất nhôm hydroxyt được ứng dụng tại nhà máy Tân Bình là công nghệ Bayer.



    Sản phẩm nhôm hydroxyt của nhà máy hóa chất Tân Bình đạt chất lượng như sau:



    Al 2 O 3 : min. 63%



    Na 2 O : max. 0 , 2%



    Hàm ẩm : max. 13%



    Do những hạn chế như hàm ẩm , lượng kiềm dư cao , cỡ hạt thô , ... Nên sản phẩm nhôm hydroxyt của nhà máy Tân Bình không thể dùng cho gốm kỹ thuật và nguyên liệu chịu nhiệt. Chất lượng nhôm hydroxyt của Tân Bình còn thấp hơn so với sản phẩm nhập từ Trung Quốc.



    Nhôm sunfat Al 2 ( SO 4 ) 3 ( phèn nhôm ) được sử dụng cốt tử để xử lý nước tại các nhà máy nước hoặc các hộ gia đình. Nhôm sunfat thường được sản xuất từ nhôm hydroxyt và axit sunfuric.



    bây giờ nhà máy hóa chất Tân Bình sản xuất các sản phẩm nhôm sunfat cấp 15% Al 2 O 3 và 17% Al 2 O 3 , cũng như các sản phẩm nhôm kali sunfat và nhôm amoni sunfat.



    Những năm quá khứ , nhiều cơ sở sản xuất phèn ở phía Bắc như Phú Thọ , Đức Giang , Hải Dương đã dùng cao lanh để sản xuất phèn nhôm ( bằng phản ứng với axit sunfuric ) dùng cho mục tiêu xử lí nước và phèn tinh chế dùng trong làm ra giấy. Nhưng chất lượng sản phẩm phèn nhôm theo phương pháp làm ra này rất thấp vì lẫn nhiều tạp chất và dư axit. Đến nay , do có nguồn nhôm hydroxyt của nhà máy hóa chất Tân Bình nên phần nhiều các cơ sở trên đã dùng nhôm hydroxyt để sản xuất phèn thay cho cao lanh , nhờ đó tăng chất lượng sản phẩm , giảm tiêu hao axit và giảm lượng bã thải.



    IV. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG



    1. Nhu cầu thị tr ư ờng



    Nước ta nằm trong lĩnh vực có nhu cầu nhập khẩu nhôm vào loại lớn nhất trên thế giới. Hàng năm các nước ASEAN , Nhật Bản , Hàn Quốc , Đài Loan phải nhập trên 4 triệu tấn nhôm , Trung Quốc và Nga nhập 3-4 triệu tấn alumin để điện phân nhôm. Với vịt đàn địa lý tiện lợi và mối giao tiếp kinh tế truyền thống , đây là thịt thà lĩnh vực tiềm tàng cho các sản phẩm nhôm của nước ta.



    Nhu cầu về sản phẩm nhôm trong nước ta hiện nay cũng khá lớn , mỗi năm nước ta nhập khoảng 70.000 tấn nhôm kim khí. Dự báo nhu cầu nhôm trong những năm tới sẽ như sau:



    Dự báo nhu cầu nhôm đ ến 2015



    Chủng loại

    2005

    2010

    2015



    Nhôm thỏi

    60.000

    80.000

    100.000



    Nhôm hình

    39.000

    65.000

    80.000



    Nhôm tấm , lá

    29.500

    35.000

    40.000



    Các loại khác

    10.050

    15.000

    20.000



    tổng cộng

    138.550

    195.000

    240.000









    Về nhôm oxyt , nhu cầu nước ta bây giờ như sau:



    lĩnh vực sử dụng Nhu cầu ngày nay ( tấn Al 2 O 3 /năm )



    vật liệu xây dựng 450 - 500



    nguyên liệu chịu lửa 1900 - 2300



    Thủy tinh 500



    Gốm sứ 150 - 200



    Tổng cộng 3000 - 3500 tấn



    Dự báo , sau năm 2005 chỉ riêng nhu cầu nhôm oxyt kỹ thuật dùng cho Công lao silicat ( bao gồm các ngành sao thủy , gốm sứ , gốm kỹ thuật , vật liệu chịu lửa ) sẽ tăng lên đến 15.000 - 20.000 tấn /năm. Ví như tính cả tới nhu cầu của các ngành khác , nhất là khi Việt Nam thực hành chiến lược phát triển ngành công nghiệp luyện nhôm , thì triển vọng thịt của ngành làm ra và cung cấp nhôm oxit kỹ thuật trong tương lai là rất lớn.



    Nước ta cũng có nhu cầu lớn về sản phẩm phèn nhôm , ngoài ra phèn nhôm còn có khả năng được xuất khẩu sang một số nước trong khu vực. Năm 2001 , công ty Hóa chất căn bản Miền Nam đã xuất được 1500 tấn phèn nhôm.



    2. Tình hình ngành công nghiệp nhôm ở một số n ư ớc



    Những nước và lĩnh vực có nhiều quặng boxit là các nước Địa Trung Hải của châu Âu như Pháp , Italia , Nam Tư , Rumani , Hy Lạp , và một số nước châu Âu khác như Hungari , Nga , Cadăctan. Những mỏ boxit lớn nhất thế giới nằm ở các nước châu Mỹ như Hoa Kỳ , Guyana , Haiti , Giamaica. Các nước như ấn Độ , Trung Quốc , Auxtralia , Gana , Camơrun , Modămbich , Madagasca , Thổ Nhĩ Kỳ , Inđônexia , ... cũng có những mỏ boxit lớn.



    bây giờ , trên thế giới có khoảng 20 nước khai khẩn boxit , 25 nước sản xuất alumin và 40 nước sản xuất nhôm bằng thủ pháp điện phân. Năm 2000 , tổng sản lượng các sản phẩm đó trên toàn thế giới như sau:



    - boxit : 135 triệu tấn



    - alumin : 52 , 8 triệu tấn



    - nhôm : 24 , 4 triệu tấn

    Những nước sản xuất boxit , alumin và nhôm quy mô lớn trên thế giới hiện tại là ( sản lượng năm 2000 , triệu tấn ):



    Nước

    Boxit

    Alumin

    Nhôm



    Australia

    52 , 34

    15 , 681

    1 , 769



    Mỹ

    0

    4 , 786

    3 , 668



    Trung Quốc

    8 , 00

    4 , 330

    2 , 820



    Braxin

    13 , 84

    3 , 743

    1 , 271



    Jamaica

    11 , 30

    3 , 640

    0



    Nga

    4 , 0

    2 , 890

    3 , 274



    Ấn Độ

    6 , 67

    2 , 100

    0 , 665



    Surinam

    3 , 80

    1 , 900

    0



    Vênêzuêla

    4 , 70

    1 , 750

    0 , 571



    Ucraina

    0

    1 , 360

    0 , 104



    Canada

    0

    1 , 200

    2 , 373



    Cdăcxtan

    3 , 73

    1 , 200

    0



    Tây Ban Nha

    0

    1 , 100

    0 , 366



    Italia

    0

    1 , 023

    0 , 189



    Đức

    0

    1 , 000

    0 , 644





    Như vậy , Australia hiện đang đứng đầu thế giới về sản lượng boxit ( chiếm 40 % sản lượng thế giới ) và alumin ( chiếm 30% ) , đứng thứ năm thế giới về sản lượng nhôm.



    Những nước sản xuất nhôm đi hàng đầu thế giới là Mỹ , Nga , Trung Quốc , Canađa , Braxin và Na Uy , với sản lượng nhôm đạt từ 1 đến trên 3 , 5 tỷ tấn.



    3. Tình hình khai thác quặng nhôm và làm ra nhôm tại một số n ư ớc châu Á



    Ấn Đ ộ:



    Trữ lượng boxit của Ấn Độ là 2 , 7 tỷ tấn , phần lớn nằm ở bờ biển phía Đông.



    Nhu cầu về các sản phẩm nhôm của ấn Độ đang càng ngày càng tăng , một phần do khuynh hướng chuyển sang dùng các vật liệu nhôm thay cho các nguyên liệu gỗ để canh gác môi trường . Trước kia Ấn Độ phải nhập nhôm kim khí , nay đã tự đáp ứng được nhu cầu bằng sản xuất trong nước và đã xuất cảng nhôm có lãi.



    Trung Quốc:



    Trung Quốc có cộng tất cả lại khoảng 300 mỏ boxit , tập trung ở các tỉnh Shanxi , Guizhou và Henan , nhưng ngoại giả cũng còn có ở Hebei , Shandong và Sichuan. Phần nhiều lượng boxit xuất cảng của Trung Quốc được khai khẩn tại Shanxi và Guizhou.



    Mỗi năm Trung Quốc sản xuất khoảng 4 , 5 triệu tấn boxit ( kể cả đất thó chịu lửa ) , trong số đó khoảng 3 triệu tấn được cung cấp cho thịt thà nội địa , còn 1 , 2 đến 1 , 5 triệu tấn được xuất biên ra ngoại bang. Ngoài boxit khai thác cho công nghiệp luyện nhôm , Trung Quốc còn sản xuất ba loại boxit phi luyện kim là : boxit làm vật liệu chịu lửa , boxit làm nguyên liệu mài và boxit làm vật liệu que hàn.



    Sản lượng boxit phi luyện kim của Trung Quốc đạt khoảng 3-3 , 6 triệu tấn , trong số đó gần một nửa được xuất khẩu. Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới về xuất biên boxit dùng làm vật liệu chịu lửa. Bây giờ , chỉ riêng xuất khẩu boxit loại này của Trung Quốc đã lên đến khoảng 1 triệu tấn / năm , chiếm 70 % thịt thà thế giới.



    Trước thập niên 1980 , xuất khẩu boxit của Trung Quốc còn ở mức rất nhu mì , cốt yếu là xuất sang Nhật Bản. Sau khi tiến hành đổi mới kinh tế và mở cửa ra thịt quốc tế , sản lượng boxit của Trung Quốc đã ngày càng tăng và thu hút sự chú ý của các thịt nước ngoài. Từ đó đến nay , Trung Quốc đã chiếm lĩnh thịt thà boxit quốc tế và trở nên nhà cung ứng boxit quan yếu trên thế giới.



    V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ



    Nước ta có nguồn nguyên liệu chứa nhôm rất rất nhiều , trữ lượng lớn , bởi thế nhà nước cần có một chiến lược phát triển ngành công nghiệp nhôm một cách Toàn thể. Cần Đa chủng hóa các sản phẩm chứa nhôm vì ngày nay ở nước ta chỉ có Nhà máy Hóa chất Tân Bình là làm ra nhôm hyđroxyt phục vụ cốt tử cho làm ra phèn nhôm. Các sản phẩm nhôm khác rất cần cho các ngành Công lao khác nhau như: oxyt nhôm kỹ thuật dùng cho ngành vật liệu chịu lửa với nhu chuồng tiêu thụ hàng năm khá lớn , oxyt nhôm hoạt tính dùng ngành dầu khí , bột nhôm hoặc các sản phẩm chứa nhôm khác v.v... , nhưng trong nước chưa làm ra được. Vì vậy triển vọng phát triển ngành Công lao nhôm là khá lớn , quốc gia nên coi xét để đầu tư một cách có hiệu quả nhất.



    Do hoàn cảnh đặc trưng của nước ta hiện tại là nguồn điện còn hạn chế , giá điện cao , Công lao nhôm của nước ta nên đi theo hướng phát triển là khai khẩn boxit , làm ra alumin quy mô lớn để xuất khẩu , tiến tới sản xuất các hợp chất nhôm khác , song song khi có hoàn cảnh về thủy điện thì dành một phần nguồn điện này để xây dựng các nhà máy điện phân nhôm nhằm đáp ứng một phần nhu cầu nhôm kim khí trong nước.



    đề án boxit Lâm Đồng đang được khai triển là điều kiện thuận tiện quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp nhôm. Nhưng chúng tôi phải đồng thời xây dựng cơ sở nội lực về khoa học công nghệ , xây dựng đội ngũ công nhân , cán bộ Có sẵn trình độ để có khả năng tiếp thu khoa học công nghệ mới , đáp ứng được các request Đa chủng và nghiêm nhặt của quá trình đầu tư và sản xuất.



    chúng ta cũng cần khai thác tối đa và bổ khuyết các Cuối cùng Học hỏi dĩ vãng , để làm cơ sở cho thời kì nghiên cứu tiếp theo một cách thật sự khách quan và chuẩn xác.



    Vấn đ ề khai khẩn tận thu các nguyên tố hiếm từ quặng boxit



    Theo số liệu phân tách , quặng boxit Việt Nam có hàm lượng gali trung bình là 38g , còn hàm lượng vanađi là 757 g V 2 O 5 / tấn tinh quặng.



    Trong sản xuất alumin cũng như trong các dự án lớn về sản xuất-chế biến nhôm ở nước ta , hiện tại chưa đặt vấn đề khai thác tận thu các nguyên tố hiếm trên trong quặng boxit. Trong lúc đó , các cơ sở làm ra tương tự ở nhiều nước khác đều có khâu khai khẩn các nguyên tố này. Việc thu hồi gali và vanađi trong quá trình làm ra nhôm và các hợp chất của nó đã được nghiên cứu khai triển có Cuối cùng ở nhiều nước. Trong hoàn cảnh hiện tại , việc khai triển công nghệ và kỹ thuật khai thác các nguyên tố hiếm từ quặng boxit là không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả khả thi. Quy trình công nghệ đã được hoàn thiện , thiết bị không quá phức tạp , nhưng ở Việt Nam chưa có cơ sở nào tiến hành Học hỏi thử nghiệm và khai triển. Giá của gali trên thịt thà thế giới là 1600 USD/kg , còn giá của V 2 O 5 là 4-6 USD/kg , nếu không tận dụng khai thác các nguyên tố hiếm này thì sẽ rất phung phí. Do vậy quốc gia nên có đầu tư Học hỏi khai triển cho lĩnh vực này và cần tiến hành ngay để có thể đón đầu khi chúng ta bắt đầu làm ra alumin và nhôm quy mô lớn.



    Việc tận thu các nguyên tố hiếm trong làm ra các hợp chất nhôm cố ý nghĩa lớn về nhiều mặt :



    - góp phần hạ giá thành sản phẩm chính



    - khai thác kiệm ước và hợp lý tài nguyên tự nhiên



    - thu được những sản phẩm đặc biệt quý hiếm sử dụng cho những ngành công nghệ cao như bán dẫn , điện tử , chế tác hợp kim , xúc tác , ...



    - giảm lượng chất thải độc hại vào môi trường
     

Chia sẻ trang này

Đang tải...