Wiki Nguyên nhân và sinh lý bệnh ung thư

Thảo luận trong 'UNG THƯ' bắt đầu bởi trantiencong, 5/9/16.

  1. trantiencong

    trantiencong Sống để hưởng thụ Thành viên BQT CEO/FOUNDER

    Bài viết:
    1,221
    Đã được thích:
    338
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Nguyên nhân và sinh lý bệnh ung thư

    Nguồn gốc của ung thư

    Phân chia tế bào (tăng sinh) là quá trình sinh lý xảy ra trong những điều kiện nhất định ở hầu hết các mô trong cơ thể sinh vật đa bào. Bình thường sự cân bằng giữa tốc độ của quá trình tăng sinh và quá trình chết của tế bào được điều hòa một cách chặt chẽ để đảm bảo cho tính toàn vẹn của cơ quan và mô. Khi các tế bào xảy ra những đột biến trong DNA, chúng có thể phá vỡ cơ chế điều khiển này và dẫn đến ung thư.

    Sự tăng sinh không kiểm soát và thường là nhanh chóng của tế bào sẽ tạo thành các khối u lành tính hay khối u ác tính (ung thư). Những khối u lành tính không lan tràn đến những nơi khác trong cơ thể hay xâm lấn vào các mô khác, và chúng hiếm khi đe dọa đến tính mạng trừ khi chúng chèn ép đến các cấu trúc sống còn. Các khối u ác tính có thể xâm lấn vào các cơ quan khác, lan đến những nơi xa hơn (di căn) và trở nên đe dọa đến tính mạng.

    Bệnh học phân tử
    [​IMG]

    Các ung thư được gây ra bởi một loạt các đột biến. Mỗi đột biến sẽ thay đổi đặc tính của khối u theo cách nào đó
    Sinh ung thư (carcinogenesis) là quá trình rối loạn tốc độ phân chia tế bào do tổn thương của DNA. Do đó ung thư là một bệnh lý về gene. Thông thường, một tế bào bình thường để chuyển dạng sang tế bào ung thư phải trải qua một vài đột biến ở một số gene nhất định. Quá tình này liên quan đến cả hệ thống gene tiền ung thư (proto-oncogene) và gene áp chế ung thư (tumor suppressor gene). Gene tiền ung thư mã hoá cho nhóm protein tham gia vào quá trình hình thành những chất truyền tin (messenger) trong quá trình dẫn truyền tín hiệu tế bào. Các chất truyền tin này sẽ truyền tín hiệu "tiến hành phân bào" tới chính tế bào đó hay những thế bào khác. Do vậy, khi bị đột biến, các gene tiền ung thư sẽ biểu hiện quá mức (overexpression) các tín hiệu phân chia tế bào, và làm các tế bào tăng sinh thừa thãi, lúc này trở thành những gene ung thư (oncogene). Tuy nhiên, vì các gene ung thư thực chất là các gene cần thiết đối với quá trình phát triển, sửa chữa và hằng định nội môi của cơ thể, do đó không thể loại bỏ các gene này khỏi hệ gene nhằm làm giảm khả năng ung thư.

    Khác với gene ung thư, các gene áp chế ung thư mã hóa cho các chất truyền tin hóa học nhằm giảm hoặc ngừng quá trình phân chia của tế bào khi phát hiện thấy có sai hỏng về DNA. Đó là các enzyme đặc biệt có thể phát hiện các đột biến hay tổn thương DNA và đồng thời khích hoạt quá trình phiên mã của hệ thống enzyme sửa chữa DNA Điều này nhằm hạn chế tối đa khả năng các sai hỏng này được truyền cho thế hệ tế bào kế tiếp. Thông thường, các gene áp chế ung thư sẽ được kích hoạt khi có tổn thương DNA xảy ra, nhưng một số đột biến có thể bất hoạt protein áp chế ung thư hoặc làm mất khả năng truyền thông tin của nó. Điều này làm gián đoạn hoặc dừng cơ chế sửa chữa DNA, khi đó những tổn thương DNA được tích luỹ lại dần dần hình thành ung thư.

    Nhìn chung, điều kiện cần thiết để hình thành ung thư là phải đột biến ở cả hai nhóm gene tiền ung thư và gene áp chế ung thư. Chẳng hạn như đột biến giới hạn ở một gene ung thư sẽ bị ức chế bởi sự kiểm soát phân bào bình thường (giả thuyết Knudson hay giả thuyết 1-2 cú đánh) và các gene ức chế khối u. Và cũng vậy chỉ một đột biến gene ức chế khối u cũng không gây ra ung thư, do bởi có nhiều gene "dự phòng" cùng chức năng. Chỉ khi có đủ gene tiền ung thư bị đột biến thành gene ung thư và có đủ gene ức chế khối u bị bất hoạt hoặc tổn thương lúc đó các tín hiệu cho tế bào phát triển vượt quá các tín hiệu điều hòa thì sự phát triển tế bào sẽ nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát.

    Đột biến có thể từ các nguyên nhân khác nhau. Một số nguyên nhân riêng biệt đã được liên kết với các loại ung thư đặc hiệu. Hút thuốc lá liên quan đến ung thư phổi. Phơi nhiễm kéo dài đối với phóng xạ, đặc biệt là phóng xạ tia cực tím từ mặt trời, dẫn đến u hắc tố và các loại ung thư da khác. Hít các sợi amiăng có liên quan đến u trung biểu mô. Tổng quát hơn, các chất hóa học được gọi là chất gây đột biến (mutagen) và các gốc tự do được biết là nguyên nhân gây ra đột biến. Các dạng khác của đột biến cũng có thể gây ra bởi quá trình viêm mạn tính, vì bạch cầu hạt trung tính tiết ra các gốc tự do có thể làm tổn thương DNA. Hoán vị nhiễm sắc thể, ví dụ như nhiễm sắc thể Philadelphia, là một dạng đặc biệt của đột biến liên quan đến sự trao đổi giữa các nhiễm sắc thể khác nhau.

    Nhiều chất gây đột biến cũng là chất gây ung thư, nhưng một số chất gây ung thư không là chất gây đột biến. Ví dụ của chất gây ung thư nhưng không phải là chất gây đột biến bao gồm rượu và estrogen. Chúng được cho là thúc đẩy phát triển ung thư thông qua tác dụng kích thích tốc độ phân bào. Tốc độ phân bào nhanh chóng sẽ để lại ít khoảng cửa sổ hơn cho các enzyme sửa chữa DNA tổn thương trong quá trình sao chép DNA, và gia tăng khả năng sai lạc di truyền. Một sai lạc xảy ra trong quá trình phân bào có thể dẫn đến những tế bào nối tiếp nhận số lượng nhiễm sắc thể sai, dẫn đến dị bội nhiễm sắc thể và gây ra ung thư.

    Các đột biến cũng có thể được di truyền. Thừa hưởng các đột biến nào đó trong gene BRCA1, một gene ức chế khối u, làm cho phụ nữ dễ phát triển ung thư vú và ung thư buồng trứng. Đột biến ở gene Rb1 có thể gây ra u nguyên bào võng mạc, và các đột biến gene APC dẫn đến ung thư đại tràng.

    Một số loại virus có thể gây ra đột biến. Chúng đóng vai trò trong khoảng 15% các trường hợp ung thư. Virus khối u, chẳng hạn như retrovirus, herpesvirus và papillomavirus, thường mang một gene ung thư hoặc một gene kìm *** quá trình ức chế khối u trong bộ gene của chúng.

    Khó có thể biết nguyên nhân đầu tiên gây ra ung thư. Tuy nhiên kỹ thuật sinh học phân tử có thể giúp xác lập đặc tính của đột biến hay sai lạc nhiễm sắc thể trong khối u, và cũng đã có tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực tiên lượng dựa vào hình thái đột biến ở một số bệnh ung thư. Ví dụ như hơn phân nửa số ung thư có tổn thương gene p53, đây là gene ức chế khối u đồng thời cũng được biết như là "người bảo vệ bộ gene". Đột biến này liên quan đến tiên lượng xấu, vì tế bào của các khối u đó không đi vào quá trình apoptosis (cái chết được lập trình). Đột biến của telomerase đã loại bỏ các hàng rào hỗ trợ khác, làm tăng số lần tế bào có thể phân chia. Những đột biến khác giúp cho khối u tăng sinh mạch máu để cung cấp nhiều hơn chất dinh dưỡng, hay giúp cho việc di căn đến những nơi khác của cơ thể.

    Các tính chất đặc trưng của tế bào ác tính:

    • tránh được apoptosis (chết theo chương trình)
    • khả năng phát triển vô hạn (bất tử)
    • tự cung cấp các yếu tố phát triển
    • không nhạy cảm đói với các yếu tố chống tăng sinh
    • tốc độ phân bào gia tăng
    • thay đổi khả năng biệt hóa tế bào
    • không có khả năng ức chế tiếp xúc
    • khả năng xâm lấn mô xung quanh
    • khả năng di căn đến nơi xa
    • khả năng tăng sinh mạch máu
    Một tế bào thoái triển thành tế bào khối u thường không có tất cả đặc điểm này cùng một lúc, tuy nhiên hậu duệ của chúng sẽ được chọn lọc để có các đặc tính đó. Quá trình này được gọi là phát triển theo dòng (clonal evolution). Bước đầu tiên trong quá trình phát triển của một tế bào u thường là một biến đổi nhỏ trong DNA, thông thường là đột biến điểm, nó tạo ra bất ổn về di truyền trong tế bào. Sự bất ổn này có thể dẫn đến việc tế bào mất toàn bộ nhiễm sắc thể hay một vài nhiễm sắc thể tăng thêm số lượng. Cũng vậy quá trình methyl hóa DNA của tế bào thay đổi dẫn đến không kiểm soát được việc kích hoạt hay bất hoạt các gene. Tế bào có tốc độ phân chia cao, như biểu mô, tỏ ra có nguy cơ cao trở thành ung thư hơn tế bào phân chia ít hơn, như tế bào thần kinh.

    Hình thái học
    [​IMG]

    Hình thái tổ chức của mô từ dạng bình thường đến khi phát triển thành khối u
    Mô ung thư có hình ảnh đặc biệt dưới kính hiển vi. Các đặc điểm nổi bật có thể thấy là một số lớn các tế bào phân chia, thay đổi hình dạng và kích thước nhân, thay đổi hình dạng và kích thước tế bào, mất các đặc điểm chuyên biệt của tế bào, mất cấu trúc mô bình thường, và ranh giới của khối u không rõ. Phương pháp hoá mô miễn dịch và các phương pháp phân tử khác có thể xác định chất đánh dấu đặc hiệu trên tế bào khối u, giúp cho chẩn đoán và tiên lượng.

    Sinh thiết và khám nghiệm vi thể có thể phân biệt được giữa ác tính và tăng sản. Tăng sản là trường hợp tăng sinh mô do tốc độ phân bào quá mức, làm gia tăng số lượng tế bào nhưng chúng vẫn giữ trật tự sắp xếp bình thường trong mô. Quá trình này được xem là có thể hồi phục được. Tăng sản có thể là một đáp ứng bình thường của mô đối với tác nhân kích thích, chẳng hạn như cục chai ở da.

    Loạn sản là một dạng bất thường của tăng sinh tế bào quá mức đặc trưng bởi mất đi sắp đặt bình thường của mô và cấu trúc tế bào. Thường thì những tế bào như vậy sẽ quay trở lại đặc tính bình thường của chúng, nhưng đôi khi chúng dần dần trở nên ác tính.

    Mức độ nặng nhất của loạn sản được xem như là "ung thư tại chỗ" (carcinoma in situ, trong tiếng Latinh, thuật ngữ "in situ" có nghĩa là "tại chỗ"). Ung thư biểu mô tại chỗ được xem là sự phát triển không kiểm soát của tế bào vẫn còn nằm tại vị trí nguyên thuỷ và chưa có biểu hiện xâm nhập đến nơi khác. Tuy vậy, ung thư biểu mô tại chỗ có thể phát triển thành ác tính xâm lấn và thường được phẫu thuật cắt bỏ nếu có thể.

    Đặc điểm di truyền
    Hầu hết các dạng ung thư là tự phát đơn lẻ, và không có cơ sở di truyền. Tuy nhiên một số hội chứng của ung thư đã được biết có mang yếu tố di truyền. Ví dụ như:

    • Một số đột biến ở gene BRCA1 và BRCA2 liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng
    • Các khối u của các cơ quan nội tiết trong bệnh đa u tuyến nội tiết (multiple endocrine neoplasia - MEN thể 1, 2a, 2b)
    • Hội chứng Li-Fraumeni (sarcoma xương, ung thư vú, sarcoma mô mềm, u não) do đột biến của p53
    • Hội chứng Turcot (u não và polyp đại tràng)
    • Bệnh polyp tuyến gia đình là một đột biến di truyền trong gene APC dẫn đến phát triển sớm ung thư đại tràng
    • U nguyên bào võng mạc trẻ em là ung thư di truyền
    Môi trường và chế độ ăn uống
    [​IMG]

    Tỷ lệ phát hiện ung thư phổi và hút thuốc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo:NIH
    Qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, phát hiện chắc chắn nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa hút thuốc lá và ung thư ở các vị trí khác nhau. Hàng trăm nghiên cứu dịch tễ học đã khẳng định mối liên kết này. Dữ liệu ủng hộ thêm nữa là tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở Mỹ phản ảnh mức độ hút thuốc lá, trong đó sự gia tăng hút thuốc lá dẫn đến gia tăng ung thư phổi, và gần đây hơn khi hút thuốc lá giảm đi kèm với tỷ lệ tử vong do ung thư phổi giảm ở nam giới.

    Đến phân nửa số ung thư tất cả các loại có sự đóng góp của hút thuốc lá, chế độ ăn uống và ô nhiễm môi trường. Nguyên nhân chủ yếu có thể kể đến là do nguồn nước ô nhiễm và nguồn thực phẩm có chứa chất bảo quản độc hại. Ở Việt Nam, hàng ngày, người tiêu dùng phải ăn những loại thực phẩm bị tẩm độc bởi những loại hóa chất độc hại, hầu hết đều có chứa các chất bảo quản gây nguy cơ mắc bệnh ung thư cho người tiêu dùng: táo, khoai tây, lê… hàng loạt các thực phẩm, hoa quả trong nước được tẩm ướp và chế biến, bảo quản bằng hóa chất như giá đỗ, chuối, đu đủ, cà chua, mít…

    Những thứ quà vặt cho trẻ em như bim bim, bánh kẹo hay những thứ đồ chơi cho trẻ như thú nhún, cây thông Noel, Đèn lồng cũng trở nên nguy hiểm đổi với con người bởi bên trong đó là những loại hóa chất trở thành tác nhân gây ra bệnh ung thư. Ngoài ra, ung thư vú hiện đang trở thành loại bệnh thường gặp nhất ở nữ giới và được dự báo có xu hướng tiếp tục tăng.
     
  2. tra0995497882

    tra0995497882 Đã đăng ký

    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Up cho chủ thớt!!!

    Thi thoảng qua wall tớ like ủng hộ nhé bạn

    Xem thêm tại da cổ bị lão hóa
     

Chia sẻ trang này

Đang tải...